Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Thủ tướng .

Hôm nay dân tình có vẻ bất bình với thủ tướng nhỉ ! đèo mẹ làm đến đó thì kịch mẹ đường tầu rồi , muốn nói gì chả được . Ông ấy có nói thẳng là : bố cứ ngồi ở đây đấy , thằng chó nào vào mà chiến ! vẫn im lặng là chắc . Hèn vãi lồn .
Lãnh đạo là lừa , nhân dân là bò , vì thế có hiểu nhau đâu  . thôi việc ai nấy làm . bò có chết thì lừa cũng đang bận họp . đảo mất thì ảnh hưởng đéo gì đến lừa ? bò đéo có chỗ bắt cá thì kêu , đó là lẽ thường . có gì đâu mà phải ầm ĩ .

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012

Ngại đọc .

Đéo hiểu sao , độ này không thể đọc được cái gì từ đầu cho tới cuối .
mấy dòng đầu , vài câu giữa , xem phần kết thế là xong mẹ nó cả bài của người ta . Tại mình lười ? hay chúng nó viết như lồn , đéo mới , chỉ toàn ôn bài , khoe nhớ dai ! chắc tại mình thôi , chứ văn nhân đéo ai lại như mình nói , nghĩ  . Đúng nhể ?

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Nhớ ba


Trưa nay đi ăn cưới con trai thằng Thái Bình, bạn học lớp cấp 3 với mình, xe thằng Hậu, cũng bạn học cấp 3, chở mình về tận cổng chung cư,  mình không muốn vào nhà ngay, bèn ra quán cà phê  ngồi một mình. Chỉ vì mình nhớ ba, nhớ quá.
Cũng tại thằng Thái Bình, nó gần sáu chục tuổi rồi mà mặt mày hảy còn non choẹt, trẻ măng. Minh trêu nó, nói mày phải làm bộ bệ vệ một chút cho vẻ ông bố chồng, không người ta nhầm mày là chú rể thì bỏ mẹ. Nói xong mình ngồi thừ, tự nhiên nhớ ba mình, ông cũng trẻ măng như thằng Bình, đến bảy chục tuổi vẫn trẻ trung, răng trắng đều tóc chải mượt. Ông đi với anh Mỹ, anh cả của mình, người ta nhầm là hai anh em, đi với anh Thắng, anh thứ sáu của mình, người ta vẫn nhầm là hai anh em.
Thằng Thái Bình chỉ xinh trai chứ không đẹp trai, ba mình đẹp trai thứ thiệt. Thị trấn Ba Đồn con trai thường đẹp hơn con gái, có ba người đẹp trai rất bền, đến già vẫn đẹp, các thế hệ sau không ai bì được, đó là ông cu Trinh, bác Ấm Đường và ba mình. Là nói chuyện đẹp bền chứ đẹp trai nhất Thị trấn vẫn là thấy Hải, thời trẻ thầy đẹp trai rực rỡ không ai bì được nhưng về già thầy phì ra, hết đẹp.
Tám anh em nhà mình chỉ có chị Nghĩa là hơi hơi giống ba một chút, hơn ba chục đứa cháu nội ngoại chỉ có thằng cu Bi hơi hơi giống ông một chút, còn lại chỉ giống ông mỗi cái mũi, hầu hết đều mang gương mặt mạ mình, không đẹp cũng chả xấu, rất chi là trung bình. Từ khi lớn tí chút, biết để ý và nhận xét, mình thấy ba mình dù ở đâu vào tuổi nào,  kể cả đến tuổi “ cổ lai hy”, mỗi bước chân của ông đều có ánh mắt phụ nữ dán ngay sau gáy, không thèm nói ngoa. Thế nhưng ông không hề có bồ, tuyệt nhiên không. Có lẽ vì ông quá nghèo, gánh nặng mười miệng ăn, nợ nần chồng chất đã làm ông không còn tâm trí nào nghĩ đến chuyện gái gú.
Ông giữ nếp nhà giáo đĩnh đạc đàng hoàng, ăn mặc rất tươm tất, áo quần là phẳng phiu thẳng nếp gấp, ra đường đói no không ai biết. Nhưng đói nghèo thật khó giấu. Đôi dép nhựa Tiền Phong ông đi gần chục năm, đi đến khi cái đế dép mỏng như tờ giấy, lủng rỗng cả một khoảng lớn ông mới chịu bỏ. Cái áo phin trắng, cái quần Ka Ki lúc nào cũng như mới tinh, ít ai biết nó được vá lót trong rất khéo. Bộ áo quần sư phạm ấy ông mặc cho đến khi chúng bợt rã ra mới thôi. Mình nhớ khi  phơi cái áo phin trắng, ông cầm áo rũ mạnh một cái, cả lưng áo bỗng rã  ra  cả vạt, ông đứng ngẩn ngơ nhìn như mất một cái gì to lớn lắm.
Ngày mình sống cùng ông  ở trường trung cấp sư phạm sơ tán lên Cao Mại, hai cha con chỉ ăn một suất cơm. Bữa nào cũng vậy, dành cơm cho mình ông ăn sắn luộc chám muối vừng. Mấy cô cấp dưỡng thấy thế thương tình, chiều chiều lại đem  rá cơm cháy cho hai cha con. Ông sẻ ra một nửa nấu cháo ăn, dành cho mình một bát cháo ăn sáng. Nửa cơm cháy còn lại ông phơi khô cất vào hũ, khoảng chín mười giờ đêm đem ra rang nhẹ, hai cha con ăn vã cùng nước chè, vừa ăn ông vừa giảng giải cho mình chuyện văn chương. Nhờ ông mình mới biết Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Vũ Trọng Phụng… đến khi vào cấp 3 học  văn các ông đó bạn bè học rất vất vả, riêng  mình thì khỏe re, hi hi.
Ở Cao Mại sắn nhiều, rẻ như cho, tuần nào ba mình cũng mang sắn về tiếp tế cho cả nhà ở làng Đông. Khi thì gánh sắn tươi khi thì bao tải sắn khô, 4 giờ chiều thứ bảy nào ông cũng mang vác gánh gồng đi bộ hơn hai chục cây số, về nhà vừa đúng 8 giờ đêm. Ông mang vác đi bộ thật kì tài, một năm hai lần cuốc bộ 700 cây số ra Hà Nội họp, cả đi lần về trên lưng luôn có một ba lô sách nặng trịch và ba chục lon gạo cùng với soong nồi bát đũa để  nấu ăn dọc đường. Ông đi như không, chẳng thấy kêu ca mệt nhọc bao giờ, chỉ khi mình cắt móng chân cho ông mới thấy tất cả ngón chân ông đều đóng sừng, riêng ngón chân út mòn vẹt hơn một nửa. Kinh.
Mùa lụt năm 67, sắp đến ngày cưới vợ của anh Huy ( anh thứ tư của mình) thì lụt về trắng đồng. Vì ngày cưới không thể trì hoãn, ba mình liều mạng lội nước băng đồng sang Quảng Thanh mua ba yến đường đen về làm kẹo lạc. Hồi này cưới xin chỉ có bánh bích qui và kẹo lạc, cả hai thứ nhà mình đều tự làm. Bánh bích qui phải làm bằng đường trắng , chỉ có 5 cân đường trắng các thấy góp phiếu đường lại cho, kẹo lạc làm đường đen vừa xấu vừa khét nhưng chẳng còn cách nào khác.
Ba mình đi lúc 10 giờ trưa đến ba giờ chiều mới về nhà, ông rũ ra vì đói, toàn thân  ướt sũng bê bết bùn đất. Đi về ngang Tô Xá ông bị sụp xuống hố bùn sâu ngang cổ, Đội trên đầu bao đường, ông không biết làm sao leo lên khỏi hố mà bao đường không bị nhúng nước. Ông đội bao đường đứng ngâm giữa nước mênh mông hơn hai giờ mới thấy có người lùa trâu đi qua. Người lùa trâu thật tốt bụng, đưa ba mình và bao đường ra khỏi hố, thấy ba mình đi không vững, ông cho ba mình ngồi lên lưng trâu đưa về đến tận ngõ. Mình nhớ như in khi ba mình vác bao đường vào nhà, nói đường đây rồi mạ mi nì. Dứt lời ông rủ xuống xỉu đi, lát sau ông từ từ ngẩng lên mắt sáng long lanh, nói bao đường còn nguyên, ôi chao may quá là may.
Bất kì rủi ro nào ông cũng tìm được may mắn để mà mừng. Hai cuộc kháng chiến  hơn hai chục lần nhà bị cháy bị bom bị phá , ông nói may quá tám đứa con vẫn còn nguyên. Đi xe đạp xuống đèo Lý Hòa bị ngã gãy chân, ông nói may quá  xe đạp cơ quan không việc gì. Lợn chết gà toi vì dịch, ông nói may quá bệnh dịch không lây lan ra cả làng. Chỉ duy nhất một lần ông không tìm được cái may nào để mà mừng ấy là lần Bác Hồ mất năm 1969. Ông nằm suốt ngày không chịu ăn uống gì, khóc ướt cả cái võng dù, ai dỗ thì nào cũng không nín.
Ông là người yêu Đảng kính Bác, tôn thờ cách mạng đến tận tủy. Không bao giờ ông đánh con, mắng mỏ thì có chứ quạt nạt cũng không bao giờ, thế mà có lần ông đã ném cả cái bát cơm vào mặt mình, chỉ vì mình “hỗn láo với cách mạng”.
 Hè năm 1976 ông cất được cái nhà ngói ba gian, nhà chỉ ba chục mét vuông thôi nhưng đấy là cái nhà khang trang nhất của đời ông. Mình học ở Hà Nội về nghỉ hè thấy ngôi nhà mừng hết lớn. Bữa cơm có chút rượu ông phấn khởi nói nhờ ơn Đảng, Bác Hồ mình mới có nhà mới đó con. Mình ngứa mồm nói sao ba không ơn ông Vĩnh Tường, ông cho mình tiền làm nhà mà. Ông ném vụt cái bát vào mặt mình, may mình tránh được. Ông ngồi ôm ngực thở dốc hồi lâu, nói không có Đảng, Bác giải phóng miền Nam, tao làm sao vô Sài Gòn gặp được ông Vĩnh Tường hả thằng ngu!
Ba mình mất năm 1987, thằng Cu Bi nhà mình được 20 ngày tuổi thì ông mất, năm đó ông 73 tuổi. Ông đi vệ sinh, vừa rời nhà vệ sinh được vài bước bỗng ngã quị. Thằng Vinh ( Nguyễn Quang Vinh) bế vào nhà. Khi đó ông vẫn còn nói năng bình thường, cậu Hằng sang nhà mượn ông mấy tờ báo Nhân dân ông còn nói chuyện thời sự rất vui vẻ. Ông cầm tay cậu Hằng tràn trề hy vọng,  nói Đảng mình sắp đổi mới rồi cậu ơi, sắp đổi mới rồi thật đó. Mắt ông ngời sáng long lanh.
 Một giờ sau ông mất. Mạ mình tưởng ông đói đi không vững nên ngã, bà vội vàng vào nấu cháo cho ông ăn. Khi mạ mình bưng bát cháo lên thì ông đã đi rồi. Cha mất ai không đau thương nuối tiếc, nhưng bình tĩnh lại mình nghĩ ông ra đi thật đúng lúc. Sau đó Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nếu còn sống ông sẽ thất vọng biết nhường nào. Dù thế nào cuối cùng ba mình cũng đã gặp may, ông đã  thoát được  cái chết trong tuyệt vọng, Thà chết sớm nhưng là chết trong hy vọng, thế gọi là may.
Ngày giỗ ba.
NQL cọp về từ nhà Lập già .




bài này hay  , sự hy sinh và niềm tin là hai thứ khó hiểu , để cân lượng chính xác . 

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012

Có còn nhiều Nghị Hách, Phó Đoan...?

Cái đáng để trân trọng nhất ở con người, ở nhân cách cầm bút của Vũ Trọng Phụng là sự dấn thân.

Giông tố là cuốn tiểu thuyết thứ hai tôi đọc trong đời (sau Chuông nguyện hồn ai), năm 12 tuổi. Thời ấy, đó là sách cấm. Chiến tranh và và sự tàn khốc của nó đã làm cho việc kiếm một cuốn sách để đọc là rất khó khăn.

Bởi vậy, lũ chúng tôi đọc tất cả những gì có thể 'vớ' được: Tây du ký, Dế mèn phiêu lưu ký, Không gia đình... cho đến khi gần như thuộc lòng là chuyện bình thường.

Sao dân mình dễ bị lừa đến thế?
Trong hàng ngàn cảnh đời của cuốn tiểu thuyết được viết bởi nhà văn mới 24 tuổi ấy (1936), có một chi tiết theo tôi cho mãi đến bây giờ: Đó là chuyện Nghị Hách lừa Mịch đem rơm đến để... nhồi vào lốp ô tô(!) Tại sao người dân nước mình bị kẻ quyền thế lừa dễ dàng đến thế?
Gần nửa thế kỷ đã đi qua kể từ khi tôi tự hỏi, câu trả lời - nói theo ngôn ngữ của Louis Aragon vẫn đang ở đâu đó Nơi bến lạ bờ xa trên trái đất này...

Xã hội trong chín cuốn tiểu thuyết, chín tập phóng sự, bẩy vở kịch, 30 truyện ngắn... của Vũ Trọng Phụng là một xã hội chạng vạng (twilight - từ của nhà văn Stephenie Meyer).

Sự đan xen giữa mới và cũ, cổ và kim, phong kiến và thực dân, Á và Âu, chữ Nho và chữ Pháp..., tạo ra cả một tầng lớp đông đúc những kẻ dở ông, dở thằng. Và mọi nỗi đau của con người, của xã hội đều xoay quanh cái trục chính đó.

Từ lão nhà giàu trọc phú gian manh, dâm đãng, tàn nhẫn Nghị Hách đến bà Phó Đoan đạo đức giả đều bất chấp thủ đoạn, dùng chủ nghĩa, lý tưởng để lừa đảo một vạn đồng bạc, lạnh lùng và thích rao giảng về đạo đức. Tất cả đều làm người đọc rùng mình vì sợ hãi.

Người ta khiếp sợ bởi một xã hội vật vã qua bao nhiêu nhiễu nhương. Xã hội đó đã từng được chí sĩ Phan Chu Trinh chỉ trích thẳng thừng:

Nước Nam lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ,không có kiến thức. Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn....

(Dẫn theo Vương Trí Nhàn, Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa; chương 12, Vũ Trọng Phụng).

Mặc dù cả nhà chí sĩ và nhà văn chưa thể lý giải đủ đầy về nguyên nhân tạo ra những sự xấu xa ấy. Nhưng thấp thoáng xa mà gần, là sương khói mà rất thực, cái cội nguồn chính "đẻ" ra mọi tai họa chính là sự áp đặt văn hóa, lối sống từ bên ngoài cưỡng bức một xã hội thiếu chuẩn bị, không biết tiếp nhận và từ chối đúng cách.

Vì thế cái gì cũng học nửa vời, áp dụng nửa vời, trắng - đen lẫn lộn, giá trị đảo điên...

Sự hợm hĩnh, ngang ngược của những kẻ có quyền, có tiền trong xã hội qua ngòi bút thấm đẫm nỗi đau nhân tình thế thái của ông, thật không tả nổi.

Điển hình là "bài diễn văn, bản thông điệp" của Nghị Hách sau làm lễ thành hôn cho con gái mình lấy người yêu của vợ mình và chàng rể cũng đã thông dâm với vợ mình, tức dì ghẻ của chàng rể(!)

Tự tay làm chuyện vô luân (cha đã từng cưỡng bức người yêu của con), rồi lại dấn sâu hơn vào con đường nhơ bẩn ấy, vẫn rao giảng về đạo đức, nói về cái mới mẻ, không câu nệ - hàm ý khoe rằng lão đã dám "sáng tạo" ra công thức mới của sự... vô sỉ!

Sự vô sỉ lên đến "đỉnh cao" đã được ngòi bút tài năng của Vũ Trọng Phụng làm cho người đọc luôn cảm thấy bức bối. Nhưng đọc Vũ Trọng Phụng những năm tháng này, người ta sẽ nghĩ gì vè những thông tin lá cải "cướp, giết, hiếp" nhan nhản đầy rẫy trên các báo?
Bao giờ nỗi đau "hàn miệng, lên da"?
Đáp lại sự phê phán của một số người cho rằng văn chương của mình trần tục, thô bạo quá, Vũ Trọng Phụng trả lời báo Ngày nay rằng: "Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời (...).

Như vậy, với tuyên ngôn chống lại dối trá, Vũ Trọng Phụng đã không sợ mất lòng mặc dù ông biết như thế là nguy hiểm. Đồng hành với nỗi đau theo nghĩa về cả cuộc đời, thể xác, tư tưởng văn chương là "cái định mệnh" đã và sẽ làm nên sức sống cho văn ông.

Ông yêu thương con người thiết tha, nên mới làm cho hàng triệu người nhức buốt và xót xa đến thế trước những nỗi bất hạnh của tầng lớp dưới đáy.

Hơn 20 tuổi đời mà đã "kịp" mang đến cho xã hội bài học về lẽ đời như thế nào. Con tim dám nói sự thật, dám dấn thân của một nhà văn tuổi còn quá trẻ, quả thật, hiếm có...
Không ai phủ nhận trong các trang viết của ông, yếu tố tình dục chiếm một phần rất lớn, một phần của nhu cầu làm đĩ. Đã có thời người ta lên án gay gắt thủ pháp tôn vinh tình dục trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, nhưng như ông đã nói- ai cũng nghĩ đến nó nhưng chẳng ai dám thú nhận vì đạo đức giả.

Ngay cả bây giờ, hàng ngày báo chí vẫn nói đến rất nhiều (thậm chí là vô cùng nhiều) những vấn nạn xoay quanh tình dục...

Cần nhấn mạnh rằng, dù có làm đĩ, Huyền vẫn được người đọc thương cảm và tôn trọng. Chứ không đến nỗi như gần đây, trước thông tin thả hàng trăm phụ nữ mại dâm, một vài người đã vội khinh rẻ, đánh đồng họ với muông thú khi dùng cụm từ "thả gà ra đuổi"... Nỗi đau của con người trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng thường được gọi là hiện thực phê phán.

Vậy thì lý giải ra sao khi Xuân tóc đỏ trở thành một "thành ngữ" về một kẻ vô học cơ hội, lươn lẹo; khi "Hòa đại nhân' (trong Tể tướng Lưu gù) có nhan nhản trong đời?

Vương Trí Nhàn đã nhận xét rất xác đáng về xã hội thời của Vũ Trọng Phụng để chúng ta rọi chiếu:

Cả kẻ vô học như Xuân lẫn bọn có học như Văn Minh đều sống bằng lừa bịp, ai giỏi lừa người đó thắng. Và cuộc sống của xã hội hiện đại đồng nghĩa với sự tàn phá nhân cách, làm hỏng con người.

Thiếu hẳn những kẻ có tài năng cũng như có tấm lòng, tức cũng là thiếu hẳn những con người xứng đáng để chúng ta kính trọng.

Nhưng những đảo điên, băng hoại đạo lý xã hội của gần 80 năm trước đây liệu có tồn tại trong xã hội ngày nay không? Hay ngày nay, chúng ta cũng đang phải đối mặt, mổ xẻ, và hàn "miệng những nỗi đau" đó? Trong trường hợp này, tầm nhìn của Vũ Trọng Phụng, khi mới hơn 20 tuổi, quả là "đi trước thời đại".
Ngòi bút dấn thân

Những câu văn của Vũ trọng Phụng như những dòng suối bức bối trên cao thượng nguồn - chúng len lỏi, vượt qua mọi trắc trở để đến với lòng người. Để ngày mỗi ngày hóa thành biển mặn đẫm nước mắt trong trái tim người.

Rất nhiều nhà phê bình văn học đã bàn về thi pháp độc đáo của Vũ (riêng tôi là người dạy sử, và bài này là bài đầu tiên trong đời mạo phạm động đến vườn văn). Nhưng có lẽ, theo tôi, cái đáng để trân trọng nhất ở con người, ở nhân cách cầm bút của Vũ Trọng Phụng là sự dấn thân.

Là sự sẵn sàng chấp nhận tất cả để hiểu rõ, hiểu đúng để chia sẻ với số phận bi thương của những con người dưới đáy của xã hội. Người Anh có câu thành ngữ "Read between the lines"- đọc giữa những hàng chữ để hiểu nhiều hơn điều tác giả muốn nói, còn giấu kín để hiểu rõ cái ý nghĩa mênh mông của sự khắc khoải ngôn từ.

Đọc Vũ Trọng Phụng, ngay cả bây giờ cũng khó hình dung nổi những trang viết của người thanh niên mới hơn 20 tuổi (tính từ những tác phẩm đầu tiên những năm 1931-1932). Làm sao có thể thành hình, làm sao chất liệu sống lại ngồn ngộn sự phi thường của hiểu biết đến thế?

Ta như nghe thấy trong tiếng mưa rơi mà ông tả ướt đẫm nước mắt. Những dằn vặt nội tâm của nhân vật như có tiếng gào thét của trái tim oan ức, đớn đau. Những mảnh đời bị xé vụn, tả tơi trong cái giả dối, trong cái tàn nhẫn, vô cảm của sự bịp lừa...

Hơn 20 tuổi đời mà đã "kịp" mang đến cho xã hội bài học về lẽ đời như thế nào. Con tim dám nói sự thật, dám dấn thân của một nhà văn tuổi còn quá trẻ, quả thật, hiếm có...

Vũ Trọng Phụng coi: Văn chương là một phương tiện tranh đấu của những người cầm bút muốn loại khỏi xã hội con người những bất công. Nhen lên trong lòng người nỗi xót thương đối với kẻ bị chà đạp lên nhân phẩm, kẻ yếu, kẻ bị đày đoạ ... Tôi sẽ cố gắng nhìn vào những nỗi đau của xã hội, may ra tìm được những thuốc khiến những cái ung đó có thể hàn miệng, lên da".

Người viết bài chỉ xin có được ít dòng để điểm nhớ, dâng hương cho một văn tài yểu mệnh phi phàm. Dù không muốn, cũng phải nói rằng, chừng nào chúng ta còn đau đớn nhiều về con người trong xã hội Vũ Trọng Phụng mô tả, thì chừng đó chứng tỏ rằng cái bi kịch xã hội vẫn còn nguyên vẹn.

Hà Văn Thịnh - Tuanvietnam
Khẳng định luôn , lão phu đéo thích lão này , do nhiều lúc y nói văng mạng làm lão phu ghét . tuy nhiên bài này được , nó chứng minh cho những con bò là lừa quốc đéo tử tế gì , khốn nạm là đằng khác , từ trước lúc Đảng vĩ đợi ra đời . Nhiều bò ! cái gì xấu là đổ ngay cho đảng mà đéo biết rằng khốn nạn , lường gạt có từ lâu rồi  ,  thuộc về dân tộc tính . Địt mẹ lũ bò ngu lại khoe mình biết đọc sách .